Nhập từ khoá và bấm Enter để tìm kiếm...

Giới thiệu các tác giả Kitô Giáo đạt giải Nobel văn học

 


Afred Nobel (1833-1896) từng viết kịch, làm thơ và yêu hòa bình; ông có 355 bản quyền sáng chế và đặc biệt là phát minh thuốc nổ vào năm 1886 đã làm cho ông trở thành một trong những người giàu nhất trên thế giới. Ông tin rằng phát minh của mình sẽ chỉ được dùng vì mục đích hòa bình và ông đã thất vọng khi thuốc nổ trở thành một công cụ hủy diệt của chiến tranh. Mặc dù phát minh đó đã mang lại cho ông một vị thế lớn trong thế giới, song việc ông thành lập quỹ giải Nobel (tổng trị giá hiện tại hơn 400.000.000$) sau này còn mang lại cho ông tiếng vang hơn nữa, đồng thời mang lại lợi ích cho thế giới thông qua việc ghi nhận các thành tựu khoa học. Một khi được thực hiện, đó là cách mà Nobel bù lại những tổn hại do phát minh của ông gây ra. 

Ngày 27 tháng 11 năm 1895, một năm trước khi qua đời, ông đã viết Di chúc và Ước nguyện cuối cùng dành phần lớn tài sản của ông để thành lập giải thưởng mang chính tên mình. Ông chỉ định:  “…Phần lợi tức hàng năm quy vào các giải thưởng dành cho những người đã có cống hiến đem lại lợi ích nhiều nhất cho nhân loại. Phần lợi tức này phải được chia thành năm phần bằng nhau…”. Năm 1901, giải Nobel chính thức ra đời, trao cho các cá nhân và tổ chức đạt thành tựu xuất sắc trong 5 lĩnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học và hòa bình.

Đến năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đã tạo thêm một giải thưởng về Kinh tế để tưởng nhớ Nobel. Tính từ 1901-2000, các Kitô hữu đạt được ít nhất 65,4% tổng số giải Nobel trong khi họ chỉ chiếm khoảng 33.2 % dân số thế giới (gồm Công Giáo, Chính Thống giáo, Anh Giáo & các hệ phái Tin Lành). Cụ thể, họ đã đạt 78.3 % giải Nobel Hòa bình, 72.5% giải Nobel Hóa học, 65.3% giải Nobel Vật lý, 62% giải Nobel Sinh lý học và Y khoa, 54% giải Nobel Kinh tế, và 49.5% giải Nobel Văn học. 

Đó là “những con số biết nói” về sự cống hiến của các tín hữu Kitô cho nhân loại, đồng thời cũng cho thấy tương quan giữa đức tin và khoa học không hề đối nghịch nhau. 

Bên cạnh đó, tỉ lệ người Do Thái hoặc gốc Do Thái đạt các giải Nobel mới thực sự đáng kinh ngạc: chiếm tới 22.4% các giải Nobel, (41% giải kinh tế, 28% Y khoa, 26% Vật lý, 19% Hóa học, 13% văn học và 9% giải Hòa Bình), trong khi họ chỉ chiếm 0,2% dân số toàn cầu! Phải chăng do người Do Thái có gen trời phú? Hay phải chăng vì họ có truyền thống hiếu học thực sự và được đặt nền tảng trên Lời Chúa với niềm xác tín mình là dân riêng Chúa chọn?

Hầu hết các tác giả đạt giải Nobel là nam giới, chiếm hơn 93%. Trong lĩnh vực khoa học, phụ nữ chiếm dưới 3% và chưa có phụ nữ nào đạt giải Nobel Kinh tế. Ngược lại, trong lĩnh vực Văn học và Hòa bình, phụ nữ chiếm 10% số giải. 

Tính theo các quốc gia: nước Mỹ đứng đầu với khoảng 36,4% tổng số giải, vương quốc Anh 13%, Đức 10,5%, Pháp 6,9%, Thụy Điển 4,1%. 

Riêng giải Nobel Văn học, từ năm 1901 đến 2016, có 7 năm không trao giải này: 1914, 1918, 1935, 1940, 1941, 1942 và 1943. Đó cũng là những năm xảy ra chiến tranh. 

Trong tổng số 113 tác giả đạt giải Nobel Văn học, chỉ có 14 tác giả nữ, trong đó có 7 người Kitô giáo (trong đó 5 người Công giáo), một con số thật đẹp! 

 Tuổi trung bình nhận giải Nobel Văn học là 65 tuổi, trong đó tác giả trẻ nhất là Rudyard Kipling nhận giải năm 1907 khi ông 41 tuổi và tác giả lớn tuổi nhất là nữ nhà văn Doris Lessing nhận giải năm 2007, ở tuổi 88. 

 Giải Nobel là ước mơ và niềm tự hào của các quốc gia, các tác giả trên thế giới. Tuy nhiên, lịch sử cũng từng có một nhà văn Jean Paul Sartre từ chối nhận giải Nobel vì ông không muốn nhận bất kỳ danh vọng trần gian nào. 

 Hướng về tinh thần Đại Kết theo Công Đồng Vatican II, chúng tôi xin mạo muội giới thiệu lần lượt đôi nét về các tác giả Kitô giáo đạt giải Nobel Văn Học theo danh sách sau đây:





 [Đình Chẩn] tổng hợp
(Phát Diệm)