Nhập từ khoá và bấm Enter để tìm kiếm...

Tiếng " Yêu " Từ Trong Cổ Họng

 




Trong dịp trại Anrê Phú Yên tại Mằng Lăng, 26-7, tôi đã được học hỏi về thân thế và sự nghiệp của Á thánh Thầy giảng Anrê Phú Yên. Khi ấy, tôi ấn tượng và ngẫm nghĩ nhiều về chi tiết: “Anrê vẫn còn kêu tên cực trọng của Chúa Giêsu khi đầu đã lìa khỏi cổ”. Một chi tiết xem ra thật hoang đường, nhưng chứng từ của cha Đắc lộ thì vẫn rành rành ra đó. Tôi bâng khuâng và muốn tìm ra chân lý. Tại sao Anrê có thể kêu tên Chúa Giêsu khi không còn trung tâm điều khiển cơ thể là cái đầu? Phải chăng là một phép lạ hay có điều gì khác trong chi tiết này?

 Thật may mắn, tôi lại tiếp tục được nghe về Anrê trong dịp “Gặp gỡ chủng sinh hè 2012”. Lần này, qua những gì tiếp thu, tôi đã tìm ược câu trả lời cho mình: Đó chỉ có thể là tình yêu, và vì quá yêu mến Chúa Giêsu mà Á thánh Anrê Phú Yên đã làm được điều đó.


 Tình yêu, tiếng gọi từ con tim, có thể giúp cho người đời làm tất cả mọi sự vì nhau, thì Anrê Phú Yên còn muốn làm hơn thế vì Chúa. Thầy là em út trong nhóm thầy giảng tại Hội An. Lẽ ra, đâu ến lượt thầy phải đưa thân chịu trận mọi đòn vọt thế gian. Thế mà thầy đã cam lòng chịu tất cả: chịu vì yêu thương anh em, chịu vì yêu mến Chúa. Yêu thương anh em, thầy sẵn sàng chăm sóc anh em đau bệnh, không quản ngại phải thức khuya dậy sớm, như một người em muốn đáp lại tình nghĩa của những người anh ruột thịt. Bởi thế, các anh đau thì thầy cũng đau. Thầy không nỡ để các anh bị bắt, bị hành hạ. Thầy đã quyết định hy sinh: “Nếu các ông muốn bắt thầy Inhaxiô thì vô ích, vì Inhaxiô không có ở đây. Còn muốn bắt tôi thì rất dễ dàng, tôi là tín hữu, hơn nữa là thầy giảng. Tôi có cả hai tội mà các ông khép cho thầy Inhaxiô để bắt thầy ấy. Nếu thầy ấy có tội thì tôi làm sao vô tội được” (Phạm Đình Khiêm, Người chứng thứ nhất, Tinh Việt Văn Đoàn, 1959, tr.125). Một quyết định có vẻ điên dại với người đời nhưng lại là khôn ngoan của con cái Chúa. Bởi trong tình thế cấp bách, người em út Anrê chỉ kịp nghĩ cho các anh, cho Nước Chúa.


 “Út bị bắt, bị giết sẽ không ảnh hưởng gì đến sinh hoạt, sự sống còn của nhóm. Trong khi nếu thầy Inhaxiô, người anh cả khôn ngoan, bản lĩnh… mất đi thì sẽ ảnh hưởng lớn đến nhóm, đến sự nẩy mầm của Tin Mừng trên quê hương” (S d, tr.125). Thầy không được nghĩ nhiều, hay đúng hơn, thầy không có thời gian để nghĩ cho mình. Thầy quyết hy sinh bước theo Thầy Chí Thánh. Đó là khởi đầu cho hành trình tiến ra pháp trường, tiến về Nước Chúa của thầy Anrê.


 Cuộc đời của tôi cũng không thể tránh khỏi những lúc phải tiến ra “pháp trường”. Tuy không tiến tới cái chết tức thời về thể xác nhưng qua những gì phải can đảm từ bỏ, tôi cũng đang tiến ra pháp trường thật sự. Cụ thể như trong dịp hè này, tôi chọn điều gì cho mình: Bộ phim gây cấn hay đi chầu cuối tuần cùng giáo xứ, đọc kinh tối với gia đình hay bữa nhậu với bạn bè, xem giải bóng đá ngoại hạng hay ngủ sớm để có thể dự thánh lễ sáng hôm sau, lo công việc gia đình hay buổi tán gẫu với bạn bè nơi quán xá, ở bên cạnh cha mẹ anh chị em hay bên những người nơi đẩu nơi đâu… Tất cả sẽ quấn lấy và buộc tôi phải chọn lựa. Mỗi chọn lựa là một lần tiến ra “pháp trường” để chịu cho người đời “xử tử”. Tôi phải làm gì đây, can đảm như Anrê hay rụt đầu như con rùa?


 Can đảm như Anrê, nghĩa là tôi phải tiến ra “pháp trường”, tiến tới cái chết, tiến tới sự từ bỏ dứt khoát đối với những gì cản trở ơn thánh. Thầy Anrê đã chọn điều đó và mau chóng đoạt lấy nó như cơ hội có một không hai. Hành động của thầy mau lẹ đến nỗi cha Đắc Lộ và các tín hữu phải vất vả lắm mới kịp can ngăn. Điều này chỉ có thể được giải thích bởi tình yêu thầy đã dành cho Chúa Giêsu: Một tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình. Bởi như hạt giống gieo vào lòng đất, nó phải thối đi thì mới sinh được nhiều bông hạt. Thầy Anrê là một hạt giống tốt và tôi thiết nghĩ thầy hằng mong muốn hạt giống ấy sinh hoa kết quả, để tình yêu của thầy được nên trọn vẹn. Vì thế ta sẽ không thấy lạ khi thầy dõng dạc nói với đám ông: “Các anh em thấy rõ tôi đây đã bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải vì ăn cướp, giết người hay làm thiệt hại ai, mà chỉ vì tôi đã nhìn nhận Chúa tể trời đất và Con Một Người xuống thế chuộc tội cho ta” (s d, tr.148). Dám nói lên điều đó, tôi tin chắc chắn, thầy đã xác tín một điều rằng: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho mình sự sống đời đời” (Ga 12,25). Và “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Tôi tin chắc rằng: Cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỉ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có cách gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35.38-39).


 Nhìn gương thầy và nhìn lại bản thân, tôi thấy mình như con rùa rụt cổ. Con rùa chỉ dám thò đầu ra khi bình yên, còn khi gặp nguy hiểm thì chỉ biết núp đầu vào mai. Nhìn thì thấy có vẻ khôn nhưng ngẫm lại thì thấy quá tiêu cực. Tôi không thể sống tiêu cực như thế! Vậy tôi phải làm gì? Điều đó phụ thuộc vào ứng xử của tôi: Tôi đã dám nói những điều mình tin vào Chúa chưa, dám sống những điều mình đã tuyên hứa với Chúa chưa, hay tôi vẫn làm việc đạo một cách hình thức. Với tư cách là chủng sinh, có bao giờ tôi dành thời gian để suy gẫm những câu hỏi: “Tôi tin vào Chúa nhưng tin như thế nào? Tôi làm việc vì Chúa nhưng làm như thế nào? Tôi nói về Chúa nhưng nói bằng cách nào? Trái tim tôi đang chứa đựng điều gì?”... Trả lời được những câu hỏi trên, tôi sẽ biết tôi đang đi trên con đường nào, có còn giữ được ơn gọi dâng hiến của mình hay không?


 Mỗi lần soi gương, tôi nhận ra mình đẹp chỗ nào và xấu chỗ nào. Cũng vậy, soi vào gương Á thánh Anrê Phú Yên, tôi thấy mình thiếu hụt, khiếm khuyết nhiều chỗ về cả thân xác lẫn tâm hồn. Về thân xác, thánh Phaolô có dạy: “Tinh thần thì mau mắn, còn thân xác thì yếu đuối”, nhưng không thể vì yếu đuối mà tôi lại để cho thân xác có nhiều khiếm khuyết. Có thể ăn mặc hợp thời trang nhưng tôi không thể làm cho mình trở nên lố lăng. Có thể đi đứng, nói năng mạnh bạo nhưng tôi không thể cộc cằn thô lỗ…v.v… Dẫu cách xa về thời gian, hơn ba thế kỷ, nhưng những gì cha Đắc Lộ nhận xét về thầy Anrê luôn khiến tôi phải biết nhìn lại nhân cách của mình. “Thầy bản tính hiền lành, trong sạch, ngay thật, rất có khả năng chịu mọi tác dụng của ơn thánh. Mới chịu phép rửa tội chưa bao lâu, thầy đã miệt mài trên đường nhân đức, và đã tiến bộ mau chóng, đến nỗi chỉ trong thời gian ngắn đã đạt được trình độ mà người khác phải nhiều năm mới đạt tới” (S d, tr.150).


 Một bề ngoài thánh thiện diễn tả một chiều sâu tâm hồn cao đẹp. Thầy dành trọn tâm hồn cho Chúa Giêsu ngay từ giây phút đầu tiên gặp gỡ với Ngài. Ơn Chúa đã làm cho tinh thần mau mắn của thầy bị chiếm hữu bởi danh thánh Giêsu. Diễn tả về điều đó, cha Đắc Lộ đã viết: “Người thanh niên thánh thiện này vẫn không ngớt đọc thánh danh Chúa Giêsu ngay khi đầu của thầy đã rời khỏi cuống họng, và nằm ngã trên vai bên phải…” (S d, tr.156). đã Thật kỳ lạ, đầu đã rơi, máu đã đổ, người ta cướp lấy mạng sống của thầy nhưng thầy vẫn không ngã. Có lẽ, danh thánh Giêsu đã giữ thầy đứng vững trước gươm đao của người đời và làm dấu chứng sống động cho toàn thể lương dân. Và để giải thích cho điều kỳ lạ trên, không có lời nào xác đáng cho bằng lời của cha Đắc Lộ: “Thánh danh Chúa không thể phát ra từ miệng thầy nữa, thì lại phát ra từ trái tim thầy, ngay đang lúc thôi đập, để tỏ rằng trái tim này dầu có chết, cũng còn giữ mãi thánh danh kia, và khi không thể dùng miệng lưỡi mà ca ngợi danh thánh Giêsu được, thì thầy dùng chính vết thương mình mà ca ngợi danh thánh” (S d, tr.156).


 Đúng vậy, Danh Thánh Chúa không chỉ được diễn tả trên môi miệng của tôi mà ngay chính trong cuộc sống thường ngày của tôi. Có thể tôi không đủ can đảm làm chứng như thầy Anrê giữa dòng đời, nhưng lời nói, hành động và con tim của tôi phải luôn hướng về Chúa, dành trọn cho Chúa. Và khi con tim đã thuộc trọn về Chúa, tôi phải hành động theo tiếng Chúa mời gọi tôi mỗi ngày. Đó là đem những gì mà tôi đã học ược nơi chủng viện làm điều sinh ích cho giáo xứ và Giáo phận. Trước tiên, trong thời gian chuẩn bị gần, mừng 400 năm Tin Mừng đến với Giáo phận Qui Nhơn, tôi quyết chí thanh tẩy bản thân, cùng với mọi thành phần dân Chúa làm theo các chủ điểm mà Đức Giám mục Giáo phận đã đề ra. Chúng ta hãy cùng một lòng noi gương vị thánh tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam: “Hãy giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”.



PhaoLô Nguyễn Bá Định.
ĐCV Sao Biển - Nha Trang.