(Hồi ký của một sinh viên Quốc tế Trường V.U. AMSTERDAM(1) nói về Việt Nam năm 1945)
"T“ình hình Hà Lan trong những năm bị Đức chiếm đóng thật thê thảm. Cao điểm là mùa đông năm 1944, cùng với cái rét khủng khiếp, nạn đói đã diễn ra cực kỳ nghiêm trọng. Chính phủ Hà Lan lưu vong ngỡ rằng Đức quốc xã sẽ sụp đổ cuối năm ấy, nên đã kêu gọi toàn ngành đường sắt tổ chức một cuộc đình công. Cuộc tổng đình công đã gây thiệt hại cho nhà cầm quyền Đức. Đức trả đũa bằng cách cắt tiệt tất cả các lô hàng lương thực, thực phẩm và nhiên liệu đến các tỉnh phía tây, nơi có tới 4,5 triệu người Hà Lan sinh sống. Hậu quả là 18 nghìn người đã chết đói; những người sống sót thì suy kiệt nặng. Mãi tới tháng 5 năm 1945, Đức mới bắt đầu cho phép Hội Hồng Thập Tự Thụy Điển gửi hàng sang cứu trợ”.
Tháng 5 năm 1945 cũng là một cột mốc quan trọng trong đời tôi. Mặc dầu tôi có tên trong danh sách 30 sinh viên ưu tú của trường được chọn đi thực tế tại các nước trong phe Trục từ năm trước, nhưng mãi tới thời điểm ấy tôi mới được trường chính thức thông báo cho đi. Theo kế hoạch, linh mục Van Wijk sẽ là người đưa chúng tôi đến các nước ở Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á(2). Chúng tôi sẽ ở đấy trong 3 tuần, sau đó trở về trường làm luận văn tốt nghiệp dưới sự hướng dẫn của ngài.
Đấy là đợt 3, đợt cuối cùng dành cho 10 sinh viên. Lớp tôi tham gia ba người là Daar, “Mignonne”(3) và tôi. Hành trang của tôi gồm một chiếc radio để theo dõi thời sự, một máy ảnh, một ba lô đựng áo quần, sổ tay, bút mực và tiền. Ngoài những thứ ấy ra, tôi mang theo một tâm trạng cực kỳ háo hức. Tôi khao khát được biết càng nhiều càng hay về những gì đang diễn ra tại các nước Đông Nam Á.
Chẳng biết hên xui thế nào, tôi và hai bạn ấy được đưa đến Việt Nam. Nghe nói đấy là một nước nhỏ, và là một thuộc địa của Nhật.
Linh mục Van Wijk giảng giải rằng Việt Nam trước đây là thuộc địa của Pháp. Có tới 35 người Pháp đã thay nhau làm Toàn quyền Đông Dương từ tháng 11 năm 1887 cho đến đầu tháng 3 năm 1945 vừa rồi. Đêm 9/3/1945 chính là đêm Nhật tước khí giới của Pháp. Ngay sau đó, Phát xít Nhật muốn tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100 nghìn lính Nhật, đồng thời cung cấp cho việc phòng thủ lâu dài của Nhật trước đà tiến công dữ dội của Đồng minh nên đã khéo dựng ra một chính phủ làm tay sai cho Nhật tại Việt Nam.
Daar, “Mignonne” và tôi được linh mục Van Wijk đưa về trú chân lần lượt tại một số đại chủng viện cạnh các nhà thờ Công giáo. Phải nói rằng hầu hết các nơi ấy đều đẹp. Hầu hết các nhà thờ được xây theo lối kiến trúc gothique. Tôi thích nhất là hình ảnh các chủng sinh lặng lẽ đứng nghiêm trang ở sân nhà thờ, mắt hướng về tượng Đức Mẹ Maria hoặc tượng Chúa Giê-su với lòng thành kính, chắp tay cầu nguyện cho quốc thái dân an. Những thời khắc ấy, chúng tôi tạm quên đi những giây phút hãi hùng trước những đợt oanh kích ác liệt của không quân Mỹ tại Đông dương. Chúng tôi cũng tạm quên đi thực trạng của một thế giới đang đứng bên bờ vực thẳm, chiến tranh nối tiếp chiến tranh, lòng người ly tán, con người xử sự với nhau còn thua xa loài cầm thú.
Điều khiến tôi và hai bạn trong đoàn lấy làm đau xót nhất là đi đâu cũng tận mắt chứng kiến cảnh người dân kéo nhau từng đoàn đi ăn xin. Khi chúng tôi đang ở nhà thờ Phú Cam tại Huế thì vô số bà con ở các huyện cánh nam thành phố kéo về. Khi chúng tôi cùng cha Van Wijk và cha Martino Linh đi thăm các nhà thờ ở cánh bắc thì gặp rất đông người dân ở các tỉnh phía bắc lục tục kéo vô. Họ gầy đét da bọc xương, mắt lờ đờ, đi không vững. Họ lặng lẽ đi như ma trơi. Một số người còn có thể nói được thì chỉ biết thều thào rằng họ quá đói. Nhiều người đi không nổi, đành ngồi bệt xuống vệ đường cho đến lúc ngất lịm luôn.
Chúng tôi thấy cảnh người ta nhóm lửa để luộc những con chuột cống trong những ống bơ sắt hoặc ra sức thui chín những chú cóc, ếch, nhái bắt được đâu đó trên đường đi. Những người còn lại giương ánh mắt đói khát ngồi chầu chực.
Tất cả họ đều rách rưới, bần cùng, khao khát từng miếng cơm manh áo.
Chúng tôi cũng chứng kiến cảnh vô số người nằm chết dọc hai bên lối đi. Thi thể của họ tím ngắt, tay chân khô queo như cành củi. Sáng ra người ta phải thuê xe chở đi để chôn nơi những hố chôn tập thể dành cho hằng chục người.
Linh mục Martino Linh là một người Huế tận tụy với dân. Nhờ giao du rộng, ngài xin được một tờ công lệnh của Nhật cho phép vận chuyển 500 tấn gạo ra Bắc Kỳ. Phải nói rõ rằng xin được giấy phép vận chuyển lương thực vào thời ấy quả là một kỳ tích, vì Nhật ban bố lệnh cấm thông thương gạo giữa các vùng và kiểm soát chặt chẽ các kho thóc gạo. Với thành tích đó, ngài vô tình biến lũ sinh viên chúng tôi lẫn linh mục Van Wijk thành những nhà cứu trợ.
Ngài giao tiền lạc quyên được cho chúng tôi, bảo chúng tôi cử người vô tận Nam Kỳ để mua thóc gạo. May mắn cho tôi là tôi quen được một anh huynh trưởng hướng đạo sinh. Anh ấy rất sõi tiếng Pháp. Anh trực tiếp đưa tôi và Daar cùng đi.
Lúc đoàn mua được thóc gạo chuyển về tới Huế, cha Martino Linh mừng lắm. Ngài cứ luôn chắp tay, mắt ngước lên cao và nói: “May quá, nhờ ơn Chúa!”.
Thực ra, trong đợt đầu tiên chúng tôi chỉ mua được 40 tạ gạo, chở về trên một chiếc xe tải được ngụy trang để nhìn ngoài người ta cứ tưởng là xe chở gỗ lẫn củi. Anh tài xế cùng tôi, Daar và cha Martino Linh vừa rời khỏi Huế chừng 9 km thì gặp một tốp thanh niên chặn xe lại. Họ là những người của Đội Thanh niên Tiền tuyến do chính phủ Trần Trọng Kim lập nên.
May cho chúng tôi, sau khi trình ra tờ công lệnh cho phép vận chuyển lương thực thì họ gật đầu đồng ý cho đi. Đúng lúc ấy, nghĩa là lúc tôi chưa kịp che chắn xong mấy bao gạo ở sau xe, một anh nọ chừng băm mốt, băm hai tuổi xuất hiện. Thấy tôi, anh ấy khá ngạc nhiên. Hẳn là anh không thể nào ngờ được tại sao lại có một gã thanh niên châu Phi trên một đất nước như đất nước anh. Anh hỏi tôi bằng tiếng Pháp, đại loại là anh rất ngạc nhiên về điều ấy. Rồi anh chìa ra một tờ đơn viết bằng tiếng Việt.
Anh giải thích đấy là đơn xin cứu tế cho người dân đói khát ở xứ anh. Anh bảo làng anh chỉ cách đấy chưa đầy 1 km, bà con chết đói như rạ. Cuối cùng anh ra sức năn nỉ tôi và cha Martino Linh đừng đi đâu xa, hãy đến ngay làng anh.
Cha Martino Linh lưỡng lự một hồi rồi đồng ý. Ngài bảo âu đấy cũng là ý Chúa, bởi vì nếu xe không dừng lại thì mọi chuyện đã khác rồi.
Làng Hương Cần quả thật là một nơi quá nghèo và đói khát. Khi xe chúng tôi tới đấy thì người dân địa phương chở xác chết chưa xong, do vậy phải tận mắt chứng kiến cảnh tử thi nằm chồng lên nhau và ngửi cả mùi tử khí. Điều đáng nói là bà con tụ tập tới rất đông. Chỉ trong nháy mắt mà hằng trăm người đã vây lấy xe chở gạo của chúng tôi. Tất cả đều gầy guộc, xanh xao, xương sườn xương sống lô nhô phát khiếp. Trong khi tôi cùng Daar và anh thanh niên hồi nãy ráng khiêng những bao gạo đầu tiên ra để phát ưu tiên cho những người yếu rũ nằm dọc lối đi thì quá đông bà con tự ý xông lên lôi gạo xuống. Họ hì hục khiêng gạo mà mắt sáng hẳn lên. Một số người ỷ mạnh bắt đầu xô đẩy. Đích thân cha Martino Linh đứng ra hướng dẫn và khuyên lơn, nhưng quả như một phản xạ mang tính sinh vật, họ tranh nhau giành giật.
Monsieur Trần, người thanh niên đầy thiện chí hồi nãy thấy vậy lễ phép thưa:
- Thưa cha, xin cha tha lỗi cho họ. Sự đói khát đã hành hạ họ suốt gần hai năm nay rồi. Vì vậy cảnh chen lấn, xô đẩy nhau là điều không tránh khỏi. Con chỉ mong cha và các vị trong đoàn hết lòng thông cảm cho.
Khi ngồi ghi lại những dòng hồi ức này, tôi còn nhớ rõ linh mục Martino Linh lúc ấy đã không sao cầm được nước mắt. Ngài cầm tay Monsieur Trần và nói trong nghẹn ngào:
- Con hãy yên tâm. Chẳng ai trách cứ một người có lòng tốt như con đâu! Và giờ phút này, ngay cả Thiên Chúa cũng đang mỉm cười với chúng ta.
Sau chuyến đó, tôi nhớ là mình còn tiếp tục tham gia đi cứu đói thêm hai chuyến nữa. Mà hai chuyến sau thì quy mô lớn hơn, mỗi chuyến đi hai xe, mỗi xe chở tới 100 tạ gạo. Vị huynh trưởng hướng đạo sinh và cả người thanh niên làng Hương Cần mà tôi quen gọi là Monsieur Trần cũng xin được cùng đi. Và lần nào cũng vậy, khi xe của đoàn vừa mới tới một số tỉnh ở Bắc Trung Kỳ thì cha Martino Linh đã phải quyết định cho dừng lại. Ngài rơi nước mắt khi thấy đồng bào chết đói nằm phơi xác bên vệ đường. Ngài tổ chức ngay các điểm cứu đói và sai chúng tôi ưu tiên dành gạo cho những người đã đói kiệt nằm bất động.
Hai chuyến ấy thành công rõ rệt, vì tôi đưa ra sáng kiến là tách gạo từ những bao to thành nhiều bao nhỏ, mỗi bao chỉ chừng 20 ký thôi. Với bao nhỏ, ngay cả những người gầy yếu cũng có thể khiêng đi một cách dễ dàng. Tôi chụp được hình cha Martino Linh khiêng gạo vào tận nhà dân. Tôi cũng chụp được hình những người Việt Nam gầy đét cầm tay Daar, người bạn sinh viên Hà Lan của tôi, với vẻ mặt rất tươi.
Về tới Amsterdam, tôi khá ngạc nhiên vì thời cuộc đã thay đổi. Quân Đức bại trận đã rút hết về nước. Với sự chi viện quân sự của Canada và một số nước khác trong lực lượng Đồng minh, Hà Lan đã hoàn toàn được giải phóng. Hằng nghìn người Hà Lan bị quy vào tội phản quốc đang bị mọi người lên án. Không ít người trong số họ, kể cả những người ôm chân giặc và những cô gái đã từng bán dâm cho đám binh sĩ Đức đang bị làm nhục bằng cách cạo đầu và sơn màu da cam. Linh mục Casimir quay về trường trong sự vui mừng của lũ chúng tôi.
Lúc tôi và Daar vào lớp, cả lớp im phăng phắc. Rất nhiều bạn cứ chăm chăm nhìn chúng tôi. Một lát, lớp trưởng làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi:
- Ối giời! Đi tận châu Á, vậy mà khi về tới đây chả có chút quà mọn nào! Còn cô nàng “Mignonne” của hai cậu đâu? Hai cậu có lỡ dại thế nào thì nhớ khai báo ra ngay cho cả lớp cùng nghe đấy!
Cả bọn hùa nhau cười như nắc nẻ. Tới hôm sau tôi mới hiểu là “Mignonne” sau một chuyến đi lạ phong thổ, đã ngã bệnh. Tôi và Daar cứ tự trách mình. Đúng là tôi và bạn ấy đã không quan tâm đầy đủ tới cô bạn cùng đi. Trong những ngày ở Việt Nam, thú thật nỗi đau của những người đói khổ đã chiếm trọn tâm tư của chúng tôi mất rồi.
Sau khi mua sô-cô-la tặng “Mignonne” để làm hòa, tôi bắt tay ngay vào việc viết luận văn tốt nghiệp.
May mắn cho tôi là tôi không bị ràng buộc về mặt nội dung nữa. Tôi tha hồ đem những kinh nghiệm có được ở Việt Nam để minh họa về cách ghi lại những biến cố lịch sử. Tôi thẳng thắn lên án cả thực dân Pháp lẫn phát xít Nhật, những kẻ phải chịu trách nhiệm chính về nạn đói tại Việt Nam kéo dài từ tháng 10 năm 1944 tới hết tháng 5 năm 1945. Căn cứ vào những số liệu có được do người Việt Nam cung cấp, tôi viết:
“Tính ra, trong suốt 8 tháng ấy, có khoảng 2 triệu người Việt Nam đã chết vì đói.
Nguyên nhân trực tiếp là do thực dân Pháp tích trữ thóc gạo phòng khi Đồng minh tới rồi sau đó sử dụng để tái chiếm Việt Nam; còn phát xít Nhật thì ra sức thu gom gạo với giá rẻ để chở hết về nước. Nguyên nhân gián tiếp là sau khi Nhật đảo chánh Pháp, chúng buộc nông dân Việt Nam phải nhổ sạch lúa để trồng đay phục vụ cho cuộc chiến phi nghĩa của chúng. Cũng vào thời gian ấy, chúng nghiêm cấm vận chuyển lúa gạo từ Nam Kỳ ra Bắc Kỳ, trong khi chúng thừa biết ở Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ, người dân Việt Nam đang quằn quại trong một nạn đói khủng khiếp.
Nếu không có những giải pháp trên diện rộng của các nhà hảo tâm, và nếu không có bàn tay của những người Việt Minh yêu nước, hẳn nạn đói sẽ tiếp tục kéo dài hơn và số người chết sẽ nhiều hơn gấp bội”.
Vinh hạnh cho tôi, những câu nói chắc như đinh đóng cột của tôi đã được linh mục Van Wijk đọc trước lớp. Hai tuần sau, chúng lại được phát oang oang trên đài BBC, tôi trở thành một cộng tác viên của đài BBC từ dạo ấy.
(Trích tiểu thuyết “Gương Mặt Loài Homo Sapiens” sắp xuất bản)
(1) Trường dành riêng cho sinh viên Công giáo của Hà Lan.
(2) Đây là tên tự xưng của Nhật vào thời kỳ Phát xít Nhật thôn tính một số nước ở vùng châu Á – Thái Bình
dương, trong đó có Việt Nam.
(3) Biệt danh tiếng Pháp để chỉ một bạn nữ nhỏ xinh
(2) Đây là tên tự xưng của Nhật vào thời kỳ Phát xít Nhật thôn tính một số nước ở vùng châu Á – Thái Bình
dương, trong đó có Việt Nam.
(3) Biệt danh tiếng Pháp để chỉ một bạn nữ nhỏ xinh
[Trần Như Luận]
(Qui Nhơn)
(Qui Nhơn)