(Mã số: 18-135)
1.
Ông Kiệt và bà Nhân là hai vợ
chồng về hưu, sống trong một ngôi nhà khá khang trang ở giáo xứ Gò Thị. Ông là kỹ sư chế tạo
máy bậc thầy. Những thứ đồ trong nhà đều do ông sáng chế. Mỗi thứ có một tác dụng riêng rất
tiện lợi như cái máy tưới nước tự động, cái máy giặt liên hợp không cần phơi ủi gì hết, cái
máy bắt muỗi, cái lò vi ba, cái bếp điện từ hẹn giờ... Còn bà là một nhà văn có tiếng dù chưa
đạt giải Nobel hay giải Viết Văn Đường Trường. Tuy nhiên, sách của bà bán chạy vào hạng nhất
nhì trong cả nước. Cho đến bây giờ, bà vẫn không ngừng sáng tác. Mỗi tác phẩm là một ý tưởng
rất tự nhiên nhưng mang đầy ý nghĩa. Hàng tháng bà vẫn hưởng một khoản tiền kha khá từ các đầu
sách của mình. Các nhà xuất bản không ngừng đặt hàng để bà có thể liên tục cho ra đời những
“đứa con tinh thần” hầu đáp ứng nhu cầu của độc giả. Cũng bởi thế mà tính bà lãng mạn còn tính
ông thì khuôn khổ. Ấy thế mà hai ông bà lại rất hợp nhau. Âu cũng là ơn Chúa sắp xếp. Cho nên,
mọi chuyện trong nhà đều ổn thỏa, con cái đều trưởng thành và ăn nên làm ra. Bây giờ, hai ông
bà trở về quê an hưởng tuổi già bên nhau và bên Chúa.
Sáng hôm nay, khi ông ra vườn bật máy tưới nước tự động thì phát hiện vườn ổi bị
trộm. Ổi rơi rụng đầy gốc, cành lá tả tơi. Nhìn là thấy bực! Ông quát lên om sòm. Mà biết chửi
ai bây giờ. Kẻ trộm đã đi tám mươi đời. Cho nên, ông chửi rồi ông tự nghe. Bực quá, ông chạy
nhanh vào nhà, ngồi xuống bàn, lấy giấy ra thiết kế ngay một hệ thống bẫy để “bắt trộm”. Thấy
ông cặm cụi và có vẻ bực tức, bà mới đến bên hỏi khẽ.
- Chuyện gì thế ông? Mới sớm mà bực tức dữ thế?
Ông vẫn cặm cụi vẽ vẽ xóa xóa, miệng lẩm bẩm.
- Được rồi! Lũ bay chờ đấy… Chỉ nội trong ngày nay, tao sẽ làm xong và bắt hết
cả lũ...
Nghe ông nói, bà như hiểu đôi chút
nhưng không biết ông định bắt ai. Bà mới hỏi to.
- Ông!... Thế ông đòi bắt ai thế? Nhà mình có trộm à?
- Đúng... Trộm! Chúng trộm hết cả vườn ổi rồi kia kìa! Bà ra mà
xem.
Nghe ông nói, bà trả lời tỉnh bơ.
- Ôi dào!
Tưởng gì, lũ trẻ con nghịch ngợm ấy mà. Kệ chúng, coi như mình mua vui.
Ông bực tức.
- Vui gì! Mình trồng mình
phải hưởng... Bà đúng là “đồ nhà văn”! Chỉ nói chuyện không đâu...
Bà cười bình thản, từ từ kể cho ông nghe câu chuyện: “Ngày xưa có một chàng trai
trẻ, đẹp trai như ông ngày xưa ấy. Vì chàng đẹp nên hay soi mình xuống hồ nước để ngắm nghía
dung nhan của mình. Cũng vì thế mà chàng đâm say mê, cả ngày chỉ biết ngồi ngắm nghía chẳng
chịu làm gì hết. Chàng ngắm đến mức quên ăn quên ngủ. Đến một ngày, vì quá nghiêng mình vào hồ
nước, chàng trượt chân ngã và chết chìm trong đó. Chàng chết rồi, hồ nước mới khóc than thảm
thiết. Khóc hết ngày này sang ngày khác chẳng chịu để cho ai yên. Có một bà lão như tôi đây,
thương tình hồ nước mới hỏi thăm, vì sao hồ nước khóc. Hồ nước thút thít bảo vì thương nhớ
chàng trai và hơn hết là vì không còn ai soi mình xuống hồ nước nữa. Bởi thế, hồ nước không
còn cơ hội để ngắm nhìn sắc đẹp của mình trong đôi mắt của chàng trai. Cho nên, hồ nước
khóc... ” (x. Vào Truyện, Nhà Giả Kim, Paul Coelho, Lê Chu Cầu dịch, nxb. Văn Học, tr. 11-12).
Kể xong câu chuyện, bà nhỏ nhẹ nói với ông:
- Thế đấy, ông
có hiểu ý của tôi không? Ông đừng biến mình thành chàng trai hay là hồ nước nữa. Ông cứ thoải
mái an hưởng tuổi già. Chuyện của lũ trẻ để tôi lo cho.
Như hiểu đôi chút, ông đứng lên hôn vào trán bà rồi tiếp tục ngồi vào bàn kẻ kẻ
viết viết. Bà lắc đầu bỏ đi ra ngoài. Con Milu cũng đi theo.
Mới bước ra khỏi nhà, con Milu đã sủa ầm lên. Nó phát hiện người lạ trong vườn
ổi. Thì ra đám trẻ con đang trộm ổi trong vườn, đứa nào đứa nấy nhét đầy bụng ổi. Chúng còn
tham lam leo lên cao hái thêm những trái lớn ở tít trên đọt. Chúng tưởng rằng chẳng ai nhìn
thấy chúng đang ăn trộm. Mà chúng cũng thừa biết hai ông bà già và con chó nhật ở trong nhà
này chẳng làm gì được chúng. Cho nên, chúng ăn trộm mà giống như đang hái ổi ở nhà mình, tranh
giành, cãi cọ đủ thứ. Bà đứng nhìn chúng và chỉ biết cười. Thế nhưng ông đã nghe thấy nên xồng
xộc từ trong nhà chạy ra, trên tay cầm sẵn một cái roi. Con Milu thấy chủ chạy ra vườn, nó
cũng chạy theo, miệng sủa liên hồi. Thấy dáng ông, chúng hô nhau ôm “của” chạy trốn. Chúng túa
nhau chạy theo nhiều ngả rồi chui tọt ra ngoài qua các lỗ chó. Thoát ra khỏi vườn, chúng còn
đứng nhìn vào chỉ trỏ, cười nói chọc cho ông tức lộn ruột. Tức quá, ông lấy đá ném chúng và
hứa với lòng mình sẽ bắt chúng phải chịu tội. Thấy ông lấy đá ném, chúng biến mất ngay tức
khắc, chẳng còn bóng dáng một đứa nào. Đuổi chúng đi rồi, ông càu nhàu trở vào nhà. Đụng cái
gì, ông cũng đá phăng đi cho bõ tức. Bà chỉ biết nhìn ông cười thầm.
2.
Chiều đến, sau
bữa cơm, ông và bà đi dự lễ ở nhà thờ giáo xứ. Đang khi dự lễ, ông phát hiện đám trẻ con “ăn
trộm” đang ngồi ở bàn trên cùng. Tự nhiên, máu ông sôi lên. Ông muốn lên tận nơi túm lấy từng
đứa đánh cho nhừ đòn rồi lôi cổ về mắng vốn cha mẹ chúng. Thế nhưng ông không thể làm gì được
vì đang trong giờ lễ. Cho nên, cả buổi lễ hôm ấy, ông chỉ chăm chăm một điều là sau lễ sẽ bắt
tất cả chúng. Ông lo ra suy tính sẽ phải canh chừng ở đâu, làm cách gì để bắt lấy tất cả mà
không để lọt đứa nào. Trong đầu ông vẽ ra một chương trình “bắt trộm” như là một cỗ máy. Đến
nỗi, ông quên đứng, quên ngồi, quên thưa kinh cầu nguyện và quên cả việc rước
lễ.
Sau lễ, ông chạy ngay đến cửa hông để chặn đường lũ
nhỏ. Thế nhưng chúng đã biến đi từ lúc nào ông chẳng hay biết. Vì thế, ông lại càng bực tức
hơn. Trên đường về nhà, trong đầu ông chỉ toàn là những kế hoạch “bắt
trộm”.
Đêm đến, đang khi hai ông bà thiu thiu ngủ thì nghe
tiếng con Milu sủa. Ông choàng tỉnh, cầm đèn pin chạy ra cửa, rọi thẳng vào hướng con Milu
sủa. Thiệt là lũ ma quỷ phá hại nhà người ta! Cả một đám trẻ con đang cặm cụi dưới gốc cây
nhãn lượm lượm nhặt nhặt những chùm nhãn chín thơm lừng từ trên cây thả xuống. Mà cũng khen
cho chúng, trời tối thế mà chúng vẫn hái được nhãn, lại còn tự nhiên như đang ở nhà. Chúng
nghe tiếng chó sủa và ánh đèn pin mà vẫn cứ bình thản nhặt nhạnh. Ấy thế, ông càng tức hơn,
tháo xích thả con milu ra rồi cầm gậy lao ra vườn. Bây giờ, chúng mới hốt hoảng bỏ chạy tán
loạn. Chúng chẳng cần biết luống rau, luống cà chi hết, cứ bươn ào chạy đến hàng rào, chui tọt
ra ngoài qua mấy cái lỗ chó. Thế là thêm một lần ông chẳng bắt được kẻ trộm nào. Cho nên, ông
tức tối lấy đá ném túi bụi, chẳng cần biết có trúng ai hay không. Một lúc sau, vì mỏi tay và
vì không còn nghe tiếng ai nữa nên ông lủi thủi đi vào.
Cả đêm ấy, ông không ngủ được vì tức và vì kế hoạch bắt
trộm.
3.
Sáng hôm sau, ông dậy sớm đi ra vườn ổi thực hiện kế
hoạch bắt trộm của mình. Ông tự tay bố trí hệ thống bẫy rất khoa học. Đêm qua ông đã tính toán
hết tất cả mọi đường ra ngõ vào và giờ giấc hoạt động của đám trẻ. Lần này, ông nhất định sẽ
bắt gọn bọn chúng bằng chính phát minh của mình. Ông sẽ để chúng tự mắc bẫy. Cho nên, ông đem
nhốt con Milu vào nhà sau. Xong việc, ông vào nhà nói với bà.
- Bà cứ chống mắt lên mà xem nhé! Hôm nay, tôi sẽ bắt gọn bọn chúng. Bây giờ, bà
và tôi vào nhà theo dõi.
Nói xong, ông kéo bà vào trong,
đóng cửa ngồi chờ.
Một giờ sau, đúng như dự đoán, bọn
trẻ đã trở lại. Lần này, chúng cẩn thận hơn, cho một số xung phong vô trước, số còn lại đứng
canh bên ngoài. Những đứa đã lọt vào trong, nhè nhẹ tỏa ra khắp vườn và bắt đầu hái ổi. Thế
nhưng có đứa phát hiện những dụng cụ gì là lạ trên đất. Chúng lấy cây gạt thử và làm sập một
cái bẫy cổ chó. Bẫy bật tung làm chúng hết hồn thét lên. May mà chúng chẳng bị gì. Thế là
chúng bắt đầu cảnh giác. Chúng để ý đến những đụn lá chung quanh, vì ẩn dưới đó là hệ thống
các bẫy có thể siết chặt chân người nếu giẫm phải. Cho nên, chúng vẫn tiếp tục hái ổi mà không
hề hấn gì. Từ trong nhà, ông trông thấy rõ từng đứa nhưng sao chúng vẫn chưa mắc bẫy. Hay là
bẫy của ông bị chúng vô hiệu. Thật tức chết đi được! Ông đã nghiên cứu kỹ rồi mà. Thôi thì
chạy ra xem sao. Biết đâu khi thấy ông, chúng sẽ chạy lung tung và giẫm phải bẫy. Nghĩ là làm.
Ông đẩy mạnh cửa nhảy ra, cầm gậy xông thẳng ra vườn. Đám trẻ con bị bất ngờ, vứt lại những
túi ổi, bỏ chạy thoát thân. Thế nhưng cũng chẳng có đứa nào sập bẫy. Vì thế, ông càng tức hơn,
quyết định rượt đuổi bọn chúng tới bến. Ông vừa chạy ra vườn vừa hô hoán, chửi
rủa.
Bỗng ông thét lên một tiếng rồi ngã sấp mặt xuống
đất, quằn quại đau đớn, hai chân duỗi thẳng ra. Nghe tiếng ông, bà hốt hoảng chạy ra, vừa chạy
vừa than.
- Đấy, khổ chưa! Tôi đã bảo rồi… Kệ
cha chúng nó!...
Thấy ông vẫn còn nằm im trên đất,
mấy đứa nhỏ cũng hết hồn hết vía rú lên.
- Ôi, ông
Mười!...
Chúng cảm thấy mình đang gây ra một
tội lỗi lớn. Biết đâu, ông chết hay gãy tay gãy chân thì chúng hối hận không kịp. Thế là chúng
quên hết sợ hãi, chạy đến bên ông. Chúng rối rít hỏi thăm và cùng nhau gỡ ông ra khỏi cái bẫy.
Đúng là “gậy ông đập lưng ông”. Ông cố tình đặt bẫy đám trẻ mà bây giờ chính ông lại sập bẫy.
Thật chẳng có cái dại nào hơn cái dại này. Ông đau đớn rên rỉ, nước mắt trào ra vì xấu
hổ.
Sau khi gỡ ông ra khỏi bẫy, bà và đám trẻ đưa ông đến
nhà thương. Trong lúc bác sĩ chăm sóc vết thương, ông bắt đầu ngẫm nghĩ. Thiệt lũ trẻ này làm
cho mình tức không chịu được. Tuy nhiên, chúng cũng thật dễ thương. Nhìn những đôi mắt thơ
ngây của chúng mới đáng yêu làm sao. Chúng đã biết lỗi, biết lo cho ông. Và đặc biệt là trong
cơn nguy hiểm, chúng đã không còn biết sợ hãi, quay lại chăm sóc ông. Đúng hơn, tình yêu đã
chiếm trọn trái tim chúng. Cho nên, chúng làm việc ấy cách nhẹ nhàng chẳng chút so đo. Đấy,
chúng vẫn còn đứng đầy ngoài kia... Đoạn, ông thưa thầm vơi Chúa: “Chúa ơi! Bây giờ
thì con đã hiểu như thế nào là sự “khôn ngoan của Thập Giá”.
Cái khôn ngoan ấy, người đời khó hiểu thấu và khó thực hiện được. Thế mà đám trẻ con này đã thực hiện điều ấy cách ngon lành. Có phải là nếu con muốn đạt được sự khôn ngoan trong Chúa thì con phải để cho lòng con trở nên như trẻ thơ.
Cái khôn ngoan ấy, người đời khó hiểu thấu và khó thực hiện được. Thế mà đám trẻ con này đã thực hiện điều ấy cách ngon lành. Có phải là nếu con muốn đạt được sự khôn ngoan trong Chúa thì con phải để cho lòng con trở nên như trẻ thơ.
Bao nhiêu năm nay, con đi tìm sự khôn ngoan của người đời, những mong
đạt được sự yên bình trong Chúa nhưng chẳng được. Lòng con đã dành cho thế gian quá nhiều chỗ.
Đúng ra, khi đã ở tuổi xế chiều này, con phải biết sống thảnh thơi trong Chúa, coi mọi chuyện
là niềm vui. Vợ con thật đúng khi ví con như “chàng trai” chỉ biết ngắm nhìn mình trong hồ
nước mà thôi... Lạy Chúa! Con đã hiểu được phần nào là “khôn ngoan” đích thực
rồi!...”
Sau khi bác sỹ băng bó vết thương,
ông và bà cùng với đám nhỏ trở về nhà. Tự nhiên, ông cảm thấy hạnh phúc hết sức. Từ ngày về
quê an dưỡng, chưa bao giờ, ông nghe tiếng trẻ con rỉ rả bên tai. Bây giờ, chẳng những ông
được nghe mà còn được thấy chúng quây quần bên cạnh. Ông như thấy mình trẻ lại và thấy cuộc
sống có ý nghĩa hơn. Ông muốn ôm tất cả chúng vào lòng, hôn lên trán từng đứa. Như thế là cuộc
sống ông sẽ đẹp biết bao. Ông nhìn chúng và nhoẻn miệng cười.
- Này các cháu! Có muốn ăn ổi, ăn nhãn nhà ông nữa không?
Đám trẻ con ngơ ngác, sợ bị ông la. Chúng lấm lét nhìn
ông.
- Dạ, chúng con xin lỗi ông bà. Chúng con không dám
nữa ạ!...
- Thôi, bỏ đi!... Ông cho chúng
cháu tất cả vườn ổi ấy...
- Dạ! Chúng con cảm ơn
ông... Chúng con sẽ giúp ông bà chăm sóc vườn ổi...
Mọi người nhìn nhau cười hạnh phúc.
Tự nhiên, ông ngước nhìn ảnh chuộc tội trên bàn thờ rồi nhìn hết đám trẻ. Ông
thốt lên:
- Đúng là “những người khôn ngoan
của Chúa”!...